PHAN THÀNH TÀI
(1869-1916)
Giáo viên Tân học - nhà yêu nước
Ông Phan Thành Tài, một yếu nhân của cuộc khởi nghĩa Duy Tân
năm 1916, sinh năm Kỷ tỵ (1869) hiệu là Ðạt Ðức, quê làng Bảo An, phủ Ðiện Bàn,
tỉnh Quảng Nam, làm giáo viên trường Diên Phong, một trường tiểu học công lập ở
Quảng Nam, rồi dạy trường Quảng Cái và nhêìu trường khác. Ông xuất thân trong
một gia đình nho học truyền thống nhưng ông theo Tây học khá sớm. Từ năm 1900 -
1904 ông là nhân vật tham gia tích cực vào phong trào Duy Tân tự cường tại Quảng
Nam. Ông tích cực dạy Pháp văn, toán pháp và các môn tân học tại các trường
Nghĩa thục. Ông là lớp tiền phong gia nhập Ðảng Việt Nam Quang phục do cụ Phan
Bội Châu và cụ Nguyễn Thành (Tiểu La) thành lập ở Quảng Nam, từ hội Duy Tân
(1904-1912) chuyển tên sang. Ông đã ám trợ đắc lực cho phong trào Ðông Du
(1905-1908), về sau ông là một trong những người cầm đầu cuộc khởi nghĩa Duy Tân
năm 1916. Tên tuổi ông gắn liền với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Lê Ngung, Lê Ðình
Dương.
Thế chiến thứ nhất bùng nổ ở Châu Âu từ 1914. Cuối 1915 Pháp
thua Ðức nhiều trận, lợi dụng thời cơ ấy, Ðảng Việt Nam Quang Phục định nổi dậy
khởi nghĩa lật đổ Pháp, cướp chính quyền, giành độc lập cho tổ quốc. Ðảng mở đại
hội lần thứ I vào tháng 9 năm ất dậu ...... .....ở đường Ðông Ba (Huế). Trong đó
có Phan Thành Tài là đại biểu Quảng Nam cùng Thái Phiên, Trần Cao Vân, Ðỗ Tự và
đại biểu gồm 5 tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Thừa Thiên, Quảng Bình, Quảng Trị.
Thái Phiên làm chủ toạ quyết định, chuẩn bị khởi nghĩa, mời cho được vua Duy Tân
tham dự, và phân công mọi người phụ trách. Trong đó Phan Thành Tài cùng một số
khác, đặc trách Quảng Nam Ðà Nẵng.
Thái Phiên (ở Nghi An, Hoà Vang) Trần Cao Vân (ở Tư Phú, Ðiện
Bàn) Phan Thành Tài (ở Bảo An Ðiện Bàn) là bộ phận chỉ huy tối cao, có lần họp
tại nhà ông Lâm Dĩ (ở La Châu, Hoà Vang) bàn chưa khởi nghĩa vội, chuẩn bị định
chọn ngày, vào giờ ngọ, ngày ngọ tức ngày 2-5 năm Bính Thìn (là 8-6-1916). Nhưng
người hưởng ứng cuộc khởi nghĩa, nay sắp xuống tàu đi sang Pháp. Theo ý vua Duy
Tân là phải làm sớm, không để mất thời cơ, đại hội thứ 2 họp vào trung tuần
tháng 3 năm Bính Thìn (1916) tại chợ Cầu Cháy, làng Xuân Yên, tỉnh Quảng Ngãi,
quyết định vào giờ tý ngày 2/4 năm Bính Thìn (tức 1h sáng ngày 3/5/1916). Chọn
Huế làm điểm khởi động bắt đầu bằng tiếng súng thần công, đèo Hải Vân sẽ nổi lửa
trên núi báo hiệu cho Quảng Nam, Quảng Nãi khởi sự. Phan Thành Tài và một số các
đồng chí phải chỉ huy chiếm cho được cảng Ðà Nẵng để cho tàu thủy chở quân viện
trợ và vũ khí do Trần Hữu Lực ở Xiêm (Thái Lan) chở về và vận động thêm sứ thần
Ðức ở Vọng cát gửi thêm vũ khí cho cách mạng.
Không ngờ cuộc khởi nghĩa lại bị lộ: do tên cai khố xanh là
Võ An có người anh là Võ Huệ làm lính giản ở dinh án sát Quảng Ngãi. An báo cho
Huệ biết phải xin phép về quê lúc 2 h chiều ngày 1/5/1916 để tránh đêm khởi
nghĩa. án sát Phạm Liễu nghi ngờ, truy vấn, Võ Huệ phải khai. Thế là Phạm Liễu
báo cho Tuần Vũ và Công sứ Pháp ở Quảng Ngãi. Công sứ điện về Khâm sứ Huế biết
trước. Ðến tối ngày 1/5/1916, lúc vua Duy Tân trốn khỏi cung xuống thuyền ở Phú
Vân Lâu do Trần Cao Vân đón, thì gặp tên Nguyễn Ðình Trứ, một yếu nhân phân công
chỉ đạo đánh đồn Mang Cá, vừa là phán sự tòa Khâm sứ. Trứ bề ngoài thì hứa hẹn
với vua Duy Tân, nhưng lại trở mặt chạy sang mật báo với tên khâm sứ. Cuộc khởi
nghĩa bị bại lộ mà các yếu nhân trong ban chỉ huy đều không biết. Lính Việt Nam
bị cấm trại, vũ khí thu hồi hết, lính Pháp đi lùng sục các ngả, ra lệnh giới
nghiêm, bắt tất cả những ai đi đêm trên đường phố. Người phụ trách nổ súng thần
công bị bắt, tình hình đã rõ, Trần Cao Vân phải chở vua Duy Tân xuống Hà Trung,
rồi lại quay về vùng Nam Giao Huế ở núi Ngũ Lĩnh tại một ngôi chùa. ở Quảng Nam
không thấy lửa mà công sứ Tổng đốc cũng lùng bắt các ngả. Phan Thành Tài từ Ðà
Nẵng phải trốn lên miền núi Hiền Giằng phía Tây Quảng Nam được người thiểu số
UThay che dấu, nhưng sau 7 ngày hai người bị bắt áp giải về Vĩnh Ðiện. Ngày
9/6/1916 ông bị hành quyết tại chợ Cũi (Ðiện Bàn Quảng Nam). Mộ ông chôn ở đầu
Cầu Vĩnh Ðiện ở gần quốc lộ I. Thái Phiên, Trần Cao Vân đều bị xử tử tại An Hòa
(Huế), vua Duy Tân bị đầy sang đảo Réunion. Cuộc khởi nghĩa đến đây chịu thất
bại. Các yếu nhân đều bị xử tử hoặc tù đầy.
PHAN PHÁT SANH
(1893-1916)
Liệt sĩ chống Pháp
Phan Phát Sanh là con ông Phan Núi (nhân viên cảnh sát Chợ
Lớn) là một người thông minh, có trí yêu nước, khoảng năm 1914, một tổ chức hoạt
động của người Hoa Kiều là Nghĩa Hòa Ðàm với Tôn chỉ bài Thanh Phục Minh mang
màu sắc tôn giáo như thờ Quan Công, Văn Thiên Tường, nhưng vè sau chuyển sang
thành Thiên địa hội rất bí mật, các nhà ái Quốc Việt Nam lợi dụng thực dân Pháp
và bè lũ việt gian phản động, nhưng vẫn mang màu sắc tôn giáo và rất kín đáo,
các hội viên tuyển lựa được thử thách về lòng dũng cảm và chí quyết tâm hy sinh
cứu nước rất khắt khe. Cùng năm 1911 Phan Phát Sanh được nhà yêu nước Nguyễn Hữu
Trí và Nguyễn Văn Hiệp cử làm lãnh tụ phong trào nhân dân chống Pháp. Phan Phát
Sanh nhờ một người ở Xiêm (Thái Lan) giới thiệu với Cường Ðế và được Cường Ðế
cấp cho một giấy chứng chỉ, nên Phan Phát Sanh tự nhận là con cháu Nguyễn Triều
và tự tôn là Phan Xích Long Hoàng Ðế, tự cho mình là có số mệnh Thiên tử, số tín
đồ theo Phan Xích Long càng ngày càng đông, ở Sài Gòn, Chợ Lớn và nhiều tỉnh
khác, Phan Xích Long lập căn cứ ở núi Thất Sơn, in truyền đơn rải khắp các chợ
Sài Gòn, Gia Ðịnh, Chợ Lớn vào đêm 23 rạng 24/3/1913, kêu gọi nhân dân nổi lên
chống Pháp dành độc lập đồng thời rải trên nhiều đường giao thông và tỉnh lỵ.
Ðêm hôm đó quân khởi nghĩa đã đặt 8 quả bom cạnh các dinh lớn như Phủ toàn
quyền, Toà án v.v... nhưng bom không nổ.
Ngày 28/3/1913 hàng trăm người biểu tình ở Chợ Lớn, đi thành
từng đoàn mặc áo trắng, không cổ, quàng khăn trắng, mang búa và cầm gậy, vây
quanh sở thanh tra, nhưng quân Pháp đến đàn áp, nhiều đoàn biểu tình khác cũng
bị giải tán. Trước hạn bạo động 2 ngày, Phan Phát Sanh đã bị Pháp bắt ở Phan
Thiết, và Nguyễn Văn Hiệp cũng bị bắt trên đường đi từ Kam pot về Sài Gòn.
Sau vụ bạo động thất bại, thực dân Pháp mở cuộc khủng bố:
1440 người bị bắt 111 người trốn được thoát, còn phần lớn bị giết hay bị tù đầy.
Phan Xích Long bị án khổ sai chung thân cùng với 5 chiến sĩ là Nguyễn Hữu Trí,
Nguyễn Màng, Nguyễn Thọ, Nguyễn Văn Hiệp, Trường Phước, Phan Xích Long bị đầy đi
GuyAne ở Nam Mỹ, nhưng vì đại chiến 1914-1918 nổ ra, nên Pháp lại giam các ông
tại Khám Lớn Sài Gòn.
Cuộc nổi dậy của Phan Xích Long tuy bị thất bại, nhưng phong
trào hội kín (tên lóng Thiên địa hội) vẫn mộ binh sang Pháp làm bia đỡ đạn chống
Ðức. Pháp tổ chức khám xét nhiều nơi như ở Long Hưng (7/1/1916), Dương Diên
(15/1/1916), Thới Sơn (24/1) và bắt được những quả bom bằng đồng, nhưng ngày
20/1/1916 nhiều làng thuộc Trà Vinh nổi lên phá cuộc mộ binh của giặc. Ngày 23/1
ở tổng Mỹ Trung thuộc Biên Hòa cũng chống tuyển mộ binh uy hiếp bọn hương lý,
đánh giết quân lính không cho tuyển mộ. Ngày 24 anh em tù nhân Biên Hòa nổi dậy
cướp súng giặc bắn vào dinh bọn thống trị, đêm đó 50 người đột nhập làng Tân
Uyên (cách Biên Hoà 15 km) phá chợ giết lính, và làm bị thương tên đồn kiểm lâm
gần đó. Ngày 12/2 ở cửa Lạp hơn 100 người định tối14 đột nhập thành phố Sài Gòn
v.v...
Phá Khám lớn Sài Gòn, lợi dụng Pháp bại trận trong thế chiến
thứ nhất, tổ chức hội kín tìm cách phá ngục cứu Phan Xích Long và các đồng chí
đang bị giam giữ, đêm 14 rạng 15/2/1916 khoảng 300 người chia làm 3 mũi, mặc áo
cộc đen, quần trắng, cổ quàng khăn, cánh tay đính bùa hộ mệnh, vác giáo, mã tấu
ở dưới thuyền tiến lên, người đi đầu vác cờ có huy hiệu Phan Xích Long, họ tiến
lên với mục tiêu phá Khám Lớn giải phóng tù chính trị, sau đó đốt kho thuốc súng
hoặc một cái nhà nào đó làm hiệu, để mũi thứ ba cùng dân chúng ngoại thành xông
vào cướp thành phố, thời gian định vào 3 giờ sáng tối 14 rạng 15/2/1916, khẩu
hiệu dùng danh từ "Ðại ca" nhưng bọn Pháp đã kịp thời huy động nhiều quân lính
ra đối phó, người chỉ huy nghĩa quân Nguyễn Hữu Trí bị thương nặng nhiều người
chết, đa số xuống thuyền rút đi, còn 80 người tiếp tục đi tấn công nơi khác
nhưng cũng bị chúng bắn giết rất dã man. Cuộc khởi nghĩa thất bại. Kết quả 19
người chết trong đêm, 38 người bị tòa án xử tử hình, Phan Phước Sanh bị xử bắn
tại Ðồng Tập trận ngày 20/2/1916 lúc đó 23 tuổi.
Với 57 vị vô danh anh hùng bị giết trong đêm phá ngục nêu lên
một trang sử hào hùng chống ngoại xâm của người dân Việt.(a)
PHAN QUANG
(1873-1939)(b)
Tiến sĩ
Phan Quang tự là Quế Nam, sinh năm Quý Dậu (1873) tại xác
Phước Sơn, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam, thuở trẻ là một người thông minh, năm
Giáp ngọ (1894) đỗ cử nhân, năm Mậu tuất (1898) Thành Thái, đậu đệ tam giáp đồng
tiến sĩ xuất thân, là một trong 5 vị tiến sĩ người Quảng Nam được vua Thành Thái
tặng là "Ngũ phụng tề phi" (5 con phượng cùng bay). Làm quan án sát tỉnh Bình
Ðịnh, về Thị Lang tham tri bộ Hình. Thượng thư tri sự (hưu) bộ Lễ, nổi tiếng về
thơ, thơ ông bình dự nhẹ nhàng như tiếng nói mộc mạc thường ngày. Ví dụ:
PHAN KẾ BÌNH (1975-1921)
Cử nhân - Nhà văn - Nhà báo
Phan Kế Bính hiện là Bưu Văn, quê ở làng Thụy Khê, huyện Hoàn
Long, tỉnh Hà Tây, sinh năm ất Hợi (1875) trong một gia đình khoa cử, ông đỗ cử
nhân khoa Bínhngọ (1906), nhưng không ra làm quan, làm nghề dạy học.
Ông hưởng ứng phong trào Duy Tân, nhưng không trực tiếp chỉ
đạo, chuyên hoạt động công khai, từ năm 1907 ông bắt đầu viết báo. Rồi lần lượt
cộng tác với các tờ: Ðông Dương tạp chí, Lục tỉnh Tân văn, Trung Bắc Tân văn,
trong nhiều năm.
Ông lại là một nhà biên khảo và dịch thuật xuất sắc, có công
phu sáng tạo với tư tưởng tiến bộ. Tác phẩm ông có nhiều loại:
Sách nghiên cứu văn học như "Việt Nam phong tục" (1915) đề
cập đến cả nề nếp sinh hoạt trong gia đình, hương Ðảng và xã hội Việt Nam xưa.
Ông nêu được nhiều nét trong thuần phong mỹ tục của nhân dân ta, đồng thời cũng
phê phán những phong tục tập quán lạc hậu.
Sách về truyện ký như "Nam hải dị nhân" (1909) "Hưng Ðại Ðại
vương truyện" (1912) kể lại những chuyện thần kỳ giai thoại danh nhân, và ca
ngợi vị anh hùng dân tộc Trần Hưng Ðạo dưới dạng tiểu thuyết chương hồi.
Phan Kế Bính còn dịch nhiều sách như "Ðại Nam nhất thông trí"
(1916), "Ðại nam điển lệ toát yếu" (1915 - 1916), "Việt Nam khai quốc chí
truyện" (1917), "Ðại Nam liệt truyện tiền biên và chỉnh biên" đặc biệt tập sách
có giá trị nhất của ông là dịch bộ "Tam quốc diễn nghĩa" (1907).
Các sách của ông đều được tái bản nhiều lần.
Một nhà nho học kiêm tân học, ham hiểu như ông vào thời kỳ
bấy giờ là một điều tiến bộ, tiếc rằng ông mất sớm lúc mới 46 tuổi vào năm Tân
Dậu 1921.
Nhà học giả Dương Bá Trạc đã điếu ông:
"Hơn mười năm một ngọn bút văn dân, giấc nhiệt thành gây dựng
quốc văn, công ấy dễ cùng cây cỏ mục.
Trong sáu tháng hai lần tang báo giới, giở di cảo ngâm ngùi
sự tích, sầu này theo với nước mây xa".
PHAN MẠNH DANH (1866-1942)
Nhà thơ, nhà giáo
Phạn Mạnh Danh vốn tên là Trung, sau đổi Mạnh Danh, hiệu Thế
Vọng, Phù Giang, sinh ngày 6/11 năm Bính Dần (12/12/1866) ở làng Phù ủng, huyện
Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Ông là con trưởng cụ Thị ÐộcPhan Trác Hoạt, cháu Hoàng
Giáp Phan Trứ, tuần phủ Khánh Hòa.
Thuở nhỏ ông đã từng theo học với các bậc đại khoa, nổi tiếng
thông minh, giỏi về thơ văn, lại vẽ giỏi, khiến sĩ phu khen ngợi ông là bậc tài
danh đất Nguyệt Hồ. Ðược bà vợ đảm đang con cụ kép Trần Xuân Luyện, nên cuộc đời
ông càng vui vẻ phấn chấn phát triển trên văn đàn, mở trường đào tạo được nhiều
nhân tài cho đất nước.
Năm Mậu thân 1908 ông giáo học ở tỉnh lỵ Hưng Yên, chuyên tâm
soạn sách giáo khoa, ít lâu sau ông về nghỉ hưu.
Ðến lúc ngoài 70 tuổi được sách phong: Phụng Nghị đại phu,
hàn lâm thị độc.
Ông mất ngày 26/4 năm Nhâm ngọ (9-6-1942). Thọ 76 tuổi.
Tác phẩm có:
Phù Giang thi tập gồm 5 quyển:
- Mấy bức tiêu hoa (1885-1886)
- Hà Giang Nhật trình (1897)
- Xuân mộng ký, hành và thơ (1898- dịch 1925)
- Ðề Thanh tâm lục (1905)
- Dật thảo (1885- 1942)
Phù Giang văn tập: Phú, Kinh Nghĩa, văn sách, văn tế nôm và
chữ, gồm:
- Bút hoa - Kiều tập thơ cổ (1896 - 1900) - Thơ cổ tập Kiều
91941) - Thơ chữ tập cổ (1892-1910). Trong đó Nguyệt hồ bát vịnh (1898).
Cổ thi trích dịch (1915-1940) dịch thơ cổ từ Hán, Sở, Ðường,
Ngũ Ðại, Tống, Nguyên, Minh, Thanh và nhiều sách giáo khoa, tuồng, truyện dịch.
PHAN VĂN TRƯỜNG
(1876-1933)
Luật khoa tiến sĩ
Ông Phan Văn Trường sinh ngày 7-8 Bính Tý (25-9-1876) ở tại
làng Ðông Ngạc, huyện Từ Liêm TP Hà Nội. Cha là Phan Anh Nhân, mẹ là Phạm Thị
Nghiêm, ông là hậu diệu đời thứ tư của tiến sĩ Phan Lê Phiên. Ông Anh Nhân (cùng
gọi là Anh Kiệt hay Duy Kiệt) có 6 con trai và 3 con gái. Ông Phan Văn Trường là
con thứ 5. Anh cả là Phan Tuấn Phong (1865-1923), anh thứ 2 là Phan Cao Luỹ
(1869-1915), theo đạo Chef), anh thứ 3 là Phan Trọng Kiên (1871-?), anh thứ 4 là
Phan Chí Thiện (1873-1945). Em ông, con thứ 6 là Phan Văn Ðường (1888-?)
Ông Phan Văn Trường thuở nhỏ học chữ Hán, sau chuyển sang học
Quốc ngữ và chữ Pháp nổi tiếng thông minh và chăm chỉ. Ông tốt nghiệp trường
thông ngôn một thời gian. Năm 1907 Ðông kinh nghĩa thục mở tại đặt một chi hội
có trường sở tại chùa Tư Khánh và ở ngõ Trung do cử nhân Hoàng Tăng Bí chỉ đạo
có cả Phan Tuấn Phong, Phan Trọng Kiên và bản thân ông tham dự. Tháng 11-1908
thực dân Pháp đóng cửa trường.
Năm sau xảy ra phong trào chống sưu thuế ở Quảng Nam và nhiều
tỉnh ở Trung kì (từ tháng 3 đến tháng 5-1908) và vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Nội
(27-6-1908). Thực dân Pháp khủng bố, bắt giam những người trước đó đã hoạt động
phong trào Ðông kinh nghĩa thục: Cử nhân Lương Văn Can, tú tài Nguyễn Quyền, đầu
xứ Lê Ðại, cử nhân Hoàng Tăng Bí v.v... 3 anh em ông cũng bị bắt.
Không đủ lí do buộc tội, thực dân Pháp phải trả tự do cho ông
Lương Văn Can và một số người khác trong đó có 3 anh em ông. Sau vụ này ông Phan
Văn Trường thấy cảnh máu Việt Nam đổ lêng láng ở tỉnh Quảng Nam và các nơi khác,
ông xin sang Pháp vào cuối năm 1098 để khỏi chứng kiến những cảnh đau lòng.
Năm năm sau, một loạt vụ bạo động xảy ra: xử tử Tuần phủ Thái
Bình Nguyễn Duy Hàn (12-4-1913) ném tạc đạn vào khách sạn Hà Nội giết 2 thiếu tá
Chapuis và Montgrand, làm bị thương 6 quân nhân Pháp (26-4-1913), 2 người anh
của ông bị bắt, Phan Tuấn Phong bị kết án tù lưu đầy biệt xứ sang Tần thế giới
(Nouvelle Calédonic) giữa Thái Bình Dương. Phan Trọng Kiên bị kết án 10 năm tù
đầy ra Côn Ðảo.
Ông Phan Văn Trường sang Mareseille 2 hôm sau lên Paris, rồi
làm giảng viên ôn tập (Répétiteur) tiếng Việt trường ngôn ngữ phương Ðông. Ðồng
thời tranh thủ thời gian ông học thêm, học luật và học văn chương. Ông say mê
học tập nên chỉ vài năm ông thi đỗ cả cử nhân luật và cả cử nhân văn khoa. Từ
năm 1910 ông thuê ở nhà số 6 Villa des gobelins với giá 750 frc mỗi năm. Ðể có
quyền hạn ong đã nhập quốc tịch Pháp ngày 18-3-1911(a). Năm 1912 ông
ghi tên vào đoàn luật sư Paris và hành nghề tại Tòa thượng thẩm Paris được chủ
nhiệm đoàn là Henri Robert kính trọng tài năng và hậu đãi.
Cũng năm 1912, Phan Văn Trường và Phan Chu Trinh gặp nhau tại
Paris, Phan Văn Trường mời Phan Chu Trinh về ở chung ngôi nhà ông thuê tại số 6
Villa des gobelins quận 13 Paris. Cũng tại ngôi nhà này hai ông đã tổ chức "Hội
đồng bào thân ái" để tập hợp những người Việt Nam học tập sinh sống tại Pháp.
Ðây là hội Việt Kiều đầu tiên ở Hải ngoại, lúc này ở Pháp số Việt kiều chỉ độ
vài chục người gồm sinh viên, học sinh, lái xe, bồi bếp, vú em... sinh hoạt cũng
tùy tiện, không có chương trình điều lệ gì cả, nhưng về sau, lúc những vụ bạo
động xảy ra ở Ðông Dương năm 1913 nói trên lại qua sự khám nhà của Phan Tuấn
Phong Hà Nội thấy có thư của Phan Văn Trường, lại qua việc Trương Duy Toản cầm
thư của Cường Ðể từ Luân Ðôn sang giao cho Phan Chu Trinh (b), Phan
Chu Trinh nghi là quỷ kế của Pháp bèn dẫn Trương Duy Toản lên cho bộ thuộc địa
Pháp, thì thực dân Pháp nghi vấn "Hội đàng bào thân ái" có hoạt động chính trị
và tổ chức theo dõi hai ông Phan, nghi có liên hệ với Việt Nam quang phục hội.
Ngày 3-8-1914, chiến tranh Pháp Ðức bùng nổ. Trước đó 3 ngày
lệnh tổng động viên được ban hành. Là người có quốc tịch Pháp, Phan Văn Trường
phải vào lính, phiên chế vào đội bộ binh số 102 đóng ở trại lính Marecau
(Charles) cách Paris 100 km về phía Tây nam.
Lợi dụng tình trạng chiến tranh, chính phủ Pháp buộc tội Phan
Văn Trường và Phan Chu Trinh có âm mưu chính trị chống lại nước Pháp. Hôm
12-9-1914, Phan Văn Trường đương cùng anh em đồng ngũ tập giữa sân thì 2 người
sen đầm đi xe hơi tới trình với chỉ huy rồi bắt ông giải về Paris đưa về tòa án
binh xét xử. (Phan Chu Trinh bị bắt sau đó 2 hôm: 14-9-1914 và giam ông ở nhà
ngục La Janté) Phan Văn Trường giam ở nhà lao quân đội Cherche midi; Phan Văn
Trường đã kiên quyết phản đối việc bắt giam vô lí đó, bác bỏ mọi lời buộc tội
của chính phủ Pháp gọi là "âm mưu chính trị chống nước Pháp", trong khi đó hội
Nhân quyền cùng một số chính khách tiến bộ trong Ðảng xã hội tích cực vận động,
nên đến tháng 7-1915 chính phủ Pháp trả tự do cho ông và cả Phan Chu Trinh.
"Hội đồng bào thân ái" từ khi 2 ông bị bắt thì phải ngừng
hoạt động. Sau khi ra tù Phan Văn Trường tiếp tục ở trong quân ngũ, làm công
việc phiên dịch ở một binh công xưởng Toulouse, cho đến khi chiến tranh chấm
dứt.
Cuộc chiến tranh càng quyết liệt, đến 1916-1917, số người
Ðông Dương do Pháp chuyển sang càng đông gồm binh lính, lính thợ, thông ngôn, y
sĩ v.v... ước tính cả trước sau đến khoảng 10 vạn người. Tình hình đòi hỏi phải
có tổ chức chính trị để lãnh đạo tư tưởng những người này. Tin tức từ trong
nước: Cuộc khởi nghĩa Duy Tân, cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên, các hoạt động của
Việt Nam Quang phục hội v.v... truyền sang càng làm cho hai nhà chí sĩ họ Phan
phải lo lắng vận mệnh đất nước theo dõi mình. Lúc này Phan Chu Trinh đương làm
nghề ảnh ở Pons phía tây nam nước Pháp cũng không xa Toulouse lắm, nơi Phan Văn
Trường đương làm phiên dịch ở binh công xưởng, chắc hai ông có thể báo tin cho
nhau và tìm cách đưa một người khác về thay thế mình lãnh đạo phong trào, Nguyễn
Tất Thành làm phụ bếp ở Luân Ðôn, với dự định lập hội "Người An nam yêu nước".
Khoảng đầu năm 1917 Nguyễn Tất Thành về pháp đảm nhận phụ trách tổ chưc này.
Năm 1918 Ðức Bại trận Phan Văn Trường trở về lại số 6 Villa
des gobelins ở Paris, tiếp tục học thêm và chuẩn bị luận án tiến sĩ Luật khoa,
vẫn làm trạng sư ở tòa Thượng thẩm Paris nhưng ông không mở văn phòng ở phố, nên
ít nhận được các thân chủ đến thuê, đời sống nhằm vào các phạm nhân tranh cãi ở
tòa, nên thu nhập thấp có lúc phải nhờ Khánh Ký, chủ hiệu buôn máy ảnh giúp đỡ,
giúp cho cả Phan Chu Trinh và Nguyễn Tất Thành. Cuối năm 1918 Nguyễn Tất Thành
cũng về ở chung với Phan Văn Trường tại số 6 Villa des gobelins, cho đếne
14/7/1921 mới chuyển sang ở số 9 ngõ Compoint (quận 17 Paris). Phan Chu Trinh
làm nghề ảnh đã giúp đỡ Nguyễn Tất Thành nghề này, cũng về Paris sau chiến
tranh. Phan Văn Trường đã giúp đỡ Nguyễn Tất Thành về tiếng Pháp, lại được nhờ
sự giúp đỡ của một số nhà báo tiến bộ về tiếng Pháp nên dần dần Nguyễn Tất Thành
biên tập viên của báo tiếng Pháp.
Cách mạng tháng 10 thành công ở nga 1917 với các nội dung của
Ðệ tam quốc tế mà Lênin nêu ra lan rộng ra nhiều nước trong đó có nước Pháp,
Phan Văn Trường và Nguyễn Tất Thành gia nhập Ðảng xã hội Pháp đầu năm 1919.
Tháng 6/1919, hội nghị hoà bình họp ở Versaille gồm 26 nước
cả nước thắng trận và cả nước bại trận. Một số nước bị áp bức cũng đến tham dự:
ấn Ðộ, Triều Tiên, Ai Cập, ái Nhĩ Lan và Ðông Dương do Nguyễn ái Quốc làm đại
diện. Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường , Nguyễn Tất Thành bàn nhau viết một bản
yêu sách gồm 8 điểm do Nguyễn Tất Thành đề xuất, có 3 người đồng ý và Phan Văn
Trường viết bằng tiếng Pháp, như đòi đại xá tù chính trị, đòi quyền bình đẳng
giữa người Pháp và người Ðông Dương, đòi tự do báo chí, tự do hội họp, tự do đi
lại, mở rộng các trường dạy nghề và kỹ thuật ở các tỉnh, bỏ chế độ sắc lệnh bằng
chế độ luật lệ, đặt đại diện người bản xứ thường trực bên cạnh nghị viện Pháp.
Bản yêu sách 8 điểm được viết bằng 3 thứ tiếng Pháp, Hán, Việt ở dưới ký Nguyễn
ái Quốc, gửi cho đại biểu hội nghị các nước ở Versaille, gửi cho nghị viện Pháp,
nhiều nơi, đã in đăng trên báo "Nhân đạo" và "Dân chúng" ngày thứ 4-18/6/1919 ở
Paris, đồng thời cùng in thành truyền đơn, bản tiếng Việt dịch thành thơ trên 6
dưới 8, phát cho những người Việt ở Pháp, binh lính, thợ thuyền và gửi về cả
Ðông Dương. Tên Nguyễn ái Quốc bắt đầu xuất hiện, làm cho chính phủ Pháp phải
phái chân tay mật thám tìm tòi.
Với luận án "Lược khảo về bộ luật Gia Long" Phan Văn Trường
đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ luật khoa. Sau đó ông soạn tiếp cuốn luật
hình qua Pháp chế cổ Trung Hoa dày 194 trang là 2 tài liệu mà luật sư Marius
Mouter đã phải đánh giá là một luận án đặc sắc về luật bản xứ (Une Thé Renar
quable sur les Codes Indignes) hai tài liệu trên được in và xuất bản tại Paris
năm 1922.
"Hội những người Việt Nam yêu nước" hoạt động mạnh trong
những người Việt Nam, chính phủ Pháp phải tổ chức một cơ quan tình báo đặc trách
theo dõi mọi hành động người An Nam tại Pháp và các mối quan hệ của họ đối với
người trong nước giao cho tên Arnoux, giám đốc sở mật tham toàn quyền Ðông Dương
phụ trách, bọn tình báo đặt mật thám theo dõi sát 3 nhà cách mạng: Phan Văn
Trường, Nguyễn Tất Thành, mà chúng phát hiện chính là Nguyễn ái Quốc và Phan Chu
Trinh. Các trùm mật thám đều coi Phan Văn Trường là một trong những tên phiến
loạn, nguy hiểm nhất, theo dõi sát ngôi nhà 6 Villa dé gobelins.
Sau đại chiến, Pháp thắng Ðức, Pháp muốn nhập vùng Ruya
(Rhur) đất cảu Ðức giáp phía Ðông bắc biên giới Pháp, nên đưa binh lính sang
đóng vùng này rất đông trong đó có cả binh lính người Việt. Cuối năm 1919 Phan
Văn Trường sang vùng này làm trạng sư trước Hội đồng quản sự tại Mayênc theo lời
của Marius Moutet, nhưng theo báo cáo của Jean, mật thám Pháp ngày 6/2/1920 là
để giúp vài người bên ấy về vấn đề thương mại, bọn thực dân nhiều lần báo động
sự có mặt của Phan Văn Trường ở vùng Ruya này,. Người Ðức lại tổ chức một hội có
mục tiêu khuấy động các thuộc địa Pháp. Trong binh lính Việt ở nhiều nơi có tình
hình hưởng ứng 8 điều yêu sách. Chúng theo dõi sát mọi bước di chuyển của Phan
Văn Trường và báo cáo về Sở tình báo Pháp ví dụ: "Phan Văn Trường và Khánh Ký
đang ở Mayyence" (Báo cáo của Guesde cuối tháng 11/1919)
- "Ông Trường đang ở bên Ðức" (Báo cáo của Jean từ 17 đến
24/12/1919) - "Ông Trường đã trở về Paris ngày 24/3/1920" (báo cáo của Jean cuối
tháng 3/1920). "người ta vừa báo tin là Phan Văn Trường đã từ Mayence trở về
Paris mấy ngày nay. Tôi đã báo tin cho sở an ninh để theo dõi ông ta trong những
ngày ở thủ đô" (báo cáo của Guesde ngày 6/7/1921) - Phan Văn Trường đã dời Paris
ngày 26/7 để đi Mayence" báo cáo Guesde 19/9/1920) v.v... Phan Văn Trường biết
những sự theo dõi của mật thám đối với mình nên đã hai lần viết thư cho bộ Thuộc
địa để phản đối hành động này (24/8/1923 và 13/10/1923) lại một lần nữa viết một
bức thư ngỏ ngày 10/9/1923 đăng trên báo Le Paria số kép 18-19 tháng 9 và 10 năm
1923.
Sau cuộc đại hội ở Tours tháng 12/1920 Ðảng xã hội Pháp phân
hóa thành 2 phái, phái Ðệ nhị quốc tế giữ tên Ðảng xã hội, phái Ðệ Tam quốc tế
với tên Ðảng cộng sản Pháp thành lập mà Nguyễn ái Quốc dự cũng là sáng lập viên.
Phan Văn Trường cũng đứng trên lập trường Ðảng cộng sản Pháp và ủng hộ Nguyễn ái
Quốc đã chuẩn bị nội dung lập hội "Liên hiệp thuộc địa", ông Phan Văn Trường từ
Mayince về đầu tháng 7/1921 đã nhiệt tình giúp đỡ tổ chức này và đã hoạt động
mạnh trong năm 1921. Ngày 19/2/1922 Nguyễn ái Quốc và Phan Văn Trường đã đến dự
cuộc họp của hội "Liên hiệp thuộc địa" ở đường Arago số nhà 28 theo giấy mời
16/2/1922 của thư ký hội tên là Monnerville, cuộc họp này quyết định sáng lập tờ
báo "Leparia" (báo người cùng khổ)(a) tờ Leparia ra số đầu ngày
1/9/1922(b) Phan Văn Trường đã viết nhiều bài báo trên tờ Le Paria,
lên án chế độ thuộc địa, vạch trần chủ nghĩa đế quốc với các thuộc địa á Phi.
Ngày 26/7/1922 Phan Văn Trường đi Mayence, lập nhóm chim khuyên đỏ: Le
Rougegorge(c).
Bọn mật thám vẫn theo dõi sát Phan Văn Trường và Nguyễn ái
Quốc đến gặp Phan Văn Trường từ 16-17 giờ bên diếu Chính phủ Poincaré không cho
chiếm vùng Ruya. Ngày 11/1/1923 Nguyễn ăn cơm cùng với Nguyễn Thế truyền và Phan
Văn Trường. Ngày 12/1/1923 nhận tờ Lalibertaire và tờ La Vague v.v... Ngày
4/4/1923 Phan Văn Trường Nguyễn ái Quốc, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn ái Quốc họp
tại sở "Liên hiệp thuộc địa" số 3 đường Marché des Patriarches để giải quyết
tình hình tài chính do tờ Le Paria do thiếu tiền nhà tin nên báo đầu tháng 4
phải ra chậm.
Giữa tháng 5/1923, Nguyễn ái Quốc vẫn đi lại hội họp và làm
việc với nhóm "Liên hiệp thuộc địa" và củng cố tờ :eparia Nguyễn có nói là sẽ đi
nghỉ mát ở cao nguyên Savoie giáp Thụy Sĩ rồi ít hôm trở về, sẽ đi vào 15/6/1923
nhưng không ngờ Nguyễn đã đi trước đó hai ngày, đi 13/6/1923 làm cho bọn mật
thám bất ngờ. Nguyễn đã bí mật đi tàu hỏa vượt biên giớiPháp Ðức. Lúc đầu mọi
người không biết, đoán là Nguyễn sẽ trở lại Paris, kể cả bọn thực dân.
Phan Văn Trường cũng dự định về nước, ý định này ông nói lên
từ khoảng cuối năm 1922, trong lúc ấy một tin tức làm cho nhà cầm quyền Pháp
giật mình. Nguyễn ái Quốc đã sang Mạc Tư Khoa (Nga) và dự đại hội nông dân quốc
tế từ ngày 10 đến 15 tháng 10 năm 1923. Phan Văn Trường dự định đi 2/12/1923
nhưng đã ở trễ lại, chúng đoán là chờ Nguyễn ái Quốc trở lại Paris, nhưng kế đó
ông vẫn đi Marscille vào cuối năm 1923, xuống tàu HaKoAKi của Nhật Bản để về Sài
Gòn.
Phan Văn Trường về Ðông Dương, làm cho bọn cầm quyền Pháp tin
là sẽ tổ chức liên lạc giữa những tên phiến loạn An nam tại Pháp và người Ðông
Dương không theo Pháp, chúng báo toàn quyền Ðông Dương biết để đề phòng (66
NAQT.258).
Về quan điểm chính trị của 3 nhà cách mạng ở Pháp sau 1920
tức là Ðảng cộng sản Pháp thành lập thì có những điểm không giống nhau. Nguyễn
ái Quốc trở thành người cộng sản, hai ông Phan là theo chủ nghĩa dân tộc nhưng
khác nhau. Phan Chu Trinh vẫn theo quốc gia cải lương theo hướng dân chủ tư sản
- Phan Văn Trường theo chủ nghĩa dân tộc có xu hướng Mác xít.
Ðầu năm 1924 Phan Văn Trường về nước, những tháng đầu về thăm
bạn bè trong nam ngoài bắc, thăm gia đình bà con ở Ðông Ngạc, đồng tời cũng để
tìm hiểu tình hình đất nước diễn biến ra sao dưới ách thống trị của thực dân.
Những hoạt động của Việt Nam Quang phục hội của Phan Bội Châu chỉ tồn tại trên
danh nghĩa. Tâm tâm xã thành lập 1923 còn non yếu, Ðảng lập hiến thành lập 1923
cũng chỉ phục vụ tư sản địa chủ với nội dung ca ngợi Pháp - Việt đề huề, nhưng
đến nửa cuối năm 1924 ngày 19/6/1924 quả bom Phạm Hồng Thái nổ tại Sa Diện chiêu
đãi toàn quyền Merlin đã làm cho chấn động lòng yêu nước của người Việt Nam:
ngày 9/8/1924 tờ Le Courier de Hải Phòng đăng bản dịch của "Lời kêu gọi của Quốc
tế cộng sản từ Matxcơva gửi nhân dân lao động Việt Nam đề ngày 27/1/1924" do
Nguyễn ái Quốc viết bằng tiếng Việt in thành truyền đơn gửi về Việt Nam. Ngày
11/11/1924 Nguyễn ái Quốc về Quảng Châu, Trung Quốc, với tên mới Lý Thụy. Tên
Nguyễn ái Quốc biến khởi Paris mùa hè năm trước nay lại xuất hiện.
Phan Văn Trường quyết định trở vào Sài Gòn hoạt động, dùng
báo chí làm vũ khí đấu tranh, chọn Sài Gòn vì đây là đất thuộc địa, đường ăn nói
có phần nới hơn, nhất là viết báo bằng tiếng Pháp dựa vào qui định đạo luật ngày
19/7/1881 của Quốc hội Pháp và được áp dụng cho Nam Kì kể từ 22/9/1881.
ở Sài Gòn tờ "La Clochefélée" (tiếng chuông rè) của Nguyễn An
Ninh, một nhà yêu nước xuất bản số 1 ngày 10/12/1923 bằng tiếng Pháp có nội dung
tiến bộ, tuyên truyền tư tưởng yêu nước báo ra được 19 số đến ngày 19/7/1924 thì
báo thiếu tiền phải ngừng xuất bản. Mãi đến tháng 6/1925 Phan Văn Trường gặp lại
Nguyễn An Ninh ở Sài Gòn bàn nhau tiếp tục xuất bản tờ La Cloche félee" do Phan
Văn Trường làm chủ nhiệm. Báo tiếp tục xuất bản số 20 ngày 26/11/1925 đúng vào
lúc cụ Phan Bội Châu bị Pháp bắt về giam tại Hỏa Lò, Hà Nội, bị kết án khổ sai
chung thân rồi Pháp đưa toàn quyền Varenne, một Ðảng viên Xã hội sang.
Từ số 23 ngày 7/12/1925, ông phê phán bài diễn văn đầu tiên
của Varenne là những thành kiến, những sự ngụy biện xuyên tạc. Số 27 ra ngày
21/12/1925 có bài "Màn hài kịch của xứ thuộc địa, một thứ hiến pháp kì quặc. Số
32 ngày 7/1/1926 có bài: Lập luận sai lầm và sự xuyên tạc về tình trạng an cư
lập nghiệp hiện tại.
Từ số 53 ra ngày 29/3/1926 đến số 60 ra ngày 26/4/1926, tờ
báo này đăng bản "Tuyên ngôn của Ðảng cộng sản" của Các Mác và ?ngghen. Ðây là
tờ báo đầu tiên ở một sứ thuộc địa in bản Tuyên ngôn Ðảng cộng sản tại Việt Nam.
Báo in tài liệu đó thành tờ rời như phụ chương làm nhiều kỳ
(68 BCVN-T.144-146). Ngoài các luận văn chính trị, La Cloche félée còn đăng
trong nước và quốc tế- để thu hút bạn đọc báo đăng Tiểu thuyết làm nhiều kỳ:
"Một cuộc âm mưu khuynh đảo chính quyền do người Việt chủ trương ở Paris - sự
thật về vấn đề Ðông Dương ". Sự thật đây là tiểu thuyết hóa các hoạt động chính
trị có thật của những người yêu nước Việt Nam ở Pháp nhằm tuyên truyền tư tưởng
yêu nước chống Ðế quốc.
Cloche félée còn đăng nhiều bài của nhiều tác giả tiến bộ,
nhằm vạch trần những thủ đoạn đàn áp bóc lột của Pháp, của Varenne về chính sách
thuộc địa... Do đó ngày 3-5-1926 Phan Văn Trường lại xuất bản một tờ với tên mới
"L'Annam" do Phan Văn Trường chủ bút, thực ra đó là cái tên mới của tờ La cloche
félée nên tờ L'Annam câu: "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh" bằng chữ
Hán (Dân vi quý, rồi đến xã tắc, Vua là Khinh). Báo L'Annam vạch trần bộ mặt
thật của toàn quyền Varenne, một Ðảng viên xã hội sang làm toàn quyền để mị dân,
chiến sĩ xã hội Varenne và những tên thực dân lộng hành ở Ðông Dương không có gì
khác nhau về đường lối cả.
Ðối với Phan Bội Châu, tờ La Cloche félée và sau đó là tờ
L'Annam dành cho Phan Bội Châu một sự tôn kính sâu sắc, gọi Phan Bội Châu là bậc
anh hùng, là nhà yêu nước vĩ đại, là nhà cách mạng nổi tiếng, ca ngợi Phan Bội
Châu là hiện thân của tâm hồn dân tộc Việt Nam trong suốt 20 năm qua, đã từ bỏ
tài sản của cải của mình để hiến trọn đời mình cho quyền lợi của đồng bào (La
Cloche félée số 30 ngày 31/12/1925 - số 27 ngày 25/1/1925). Lúc Phan Bội Châu bị
giam lỏng ở Huế, Phan Văn Trường đã vận động quyên góp trong cả nước để xây dựng
một ngôi nhà riêng cho Phan Bội Châu - Tờ La Cloche félée số 37 ngày 25/1/1926,
Phan Văn Trường kêu gọi đồng bào Nam Kỳ cùng nhau góp tiền để đảm bảo đời sống
cho nhà cách mạng danh tiếng không phải lo lắng về vật chất trong tuổi già. Phan
Văn Trường xem đó là việc trả "một món nợ thiêng liêng đối với nhà yêu nước" -
Với tư cách là chủ nhiệm tờ báo Phan Văn Trường trực tiếp đứng ra nhận tiền đóng
góp của nhân dân. Theo Vương Ðình Quang thì số tiền ủng hộ trên 2000 đ bạc Ðông
Dương, dùng tiền ấy mua vườn dựng nhà cho Phan Bội Châu trên dốc bến Ngự Huế.
Phan Văn Trường dự định mời cụ Phan Bội Châu vào Nam Kỳ vài
tuần lễ để được tiếp xúc với bậc anh hùng kính yêu (La Cloche félée số 37 ngày
25/1/1926) nhưng không thực hiện được vì Pháp không cho phép Phan Bội Châu tự do
ra Bắc vào Nam - năm 1927 Phan Văn Trường ra Huế đến thăm Phan Bội Châu - Ðây là
lần gặp gỡ đầu tiên giữa hai người. Cùng thời gian nửa cuối 1925 Phan Văn Trường
đã đăng trên báo L'Annam nhiều bài viết của "Ðặc phái viên" từ Quảng Châu gửi
về, mà các nhà nghiên cứu phỏng đoán rất có thể là của Nguyễn ái Quốc gửi về.
Kết hợp với vụ phản biến nổ ra ở Trung Quốc tháng 4/1927,
Tưởng Giới Thạch đã khủng bố và tàn sát hàng loạt người cách mạng ở Thượng Hải
và Quảng Châu. Cơ quan của tổng bộ "Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng chí hội"
ở Quảng Châu bị khám xét và bao vây nhiều cán bộ cao cấp như Hồ Tùng Mậu, Lê
Hồng Sơn... bị bắt, Nguyễn ái Quốc phải rời Trung Quốc. Thực dân Pháp muốn nhân
cơ hội này tiêu diệt các ổ cách mạng, vụ lục soát nhà riêng của Phan Văn Trường
và tòa soạn báo L'Annam vào các ngày 21, 22 tháng 7 năm 1927 xảy ra trong bối
cảnh đó.
Trưa ngày 21/7/1927 mật thám Pháp ập vào nhà riêng của Phan
Văn Trường để lục soát. Ðến hôm sau 2h30' chiều lại đến lục soát tòa soạn tờ
L'Annam, một số giấy tờ sổ sách bị tịch thu, Phan Văn Trường bị bắt, sau đó tờ
báo bị đình bản.
Ngày 27/3/1928 Phan Văn Trường bị đưa ra xử tại "Tòa án đỏ
Sài Gòn" với án hai năm tù giam về tội: "Xui kích làm phản, kêu dân Việt Nam nổi
loạn để đuổi người Pháp ra khỏi xứ".
Phan Văn Trường không chấp nhận và chống án sang Pháp. Ông
sang Pháp chờ mãi một năm rưỡi, Toà Thượng Thẩm Paris mới xử y án.
Từ nước ngoài Nguyễn ái Quốc theo dõi sát sự việc này đăng
bài tiếng Pháp nhan đề "Ðông Dương khổ nhục". Nguyễn ái Quốc thông báo với dư
luận quốc tế: "Ông Phan Văn Trường, một nhà báo Việt Nam đã bị hai năm tù vì ông
đã có tội đăng lại một bài của báo Nhân đạo bàn về sự đoàn kết huynh đệ với cách
mạng Trung Hoa".
Tám giờ tối ngày 18/8/1929 cảnh sát đến bắt Phan Văn Trường
tại căn nhà số 1 Blainville quận 5 Paris - Ông bị tống giam ở xà lim số 13 khu
số 8 của nhà lao La Santé nơi 15 năm trước Phan Chu Trinh đã từng ngồi tù 1 năm.
Những ngày đầu ông bị giam với tù thường phạm, nhưng ông đã phản đối. Từ ngày
31/8/1929 ông được chuyển sang khu tù chính trị.
Mãn hạn tù, ông về nước, sau hai năm ở nước ta xảy ra nhiều
chuyển biến cách mạng: Tháng 2-1930 nổ ra cuộc khởi nghĩa Yên Bái, phong trào
đấu tranh của Ðảng cộng sản lãnh đạo nổ ra khắp nước, Xô Viết Nghệ Tĩnh - Về Sài
Gòn, ông gặp lại Nguyễn An Ninh định xuất bản tổ báo tiếng Pháp kế tục sự nghiệp
La Cloche félée và L'Annam.
Ông ra Hà Nội 1933 thăm bà con họ hàng và xem tình hình chính
trị miền Bắc, nhưng chẳng may ở Hà Nội ông bị bệnh phải ở lại một thời gian điều
trị. Khi bệnh thuyên giảm, ông lại khẩn trương vào Nam, nhưng đi đến Ðà Nẵng
bệnh lại tái phát, ông lại phải trở ra Hà Nội tiếp tục chữa trị ở tại nhà anh
ruột là Phan Cao Luỹ ở số 25 đường Gambetta (nay là đường Trần Hưng Ðạo) Ông
Phan Cao Luỹ đã mất từ 1915, chắc là ở với thân nhân anh em và các cháu tại ngôi
nhà này - nhưng bệnh không cứu chữa được, ông qua đời ngày 22/4/1933 tại nhà này
- Hai ngày sau thân nhân gia đình đưa về chôn tại làng Ðông Ngạc, nay còn lăng
mộ ông ở đó. Ông có một người vợ Pháp ở Toulouse và năm 1921 sinh một con trai
là Robert Phan. Lúc về nước vợ và con ông vẫn ở bên Pháp.
Phan Bội Châu vẫn theo dõi những hoạt động của luật sư Phan
Văn Trường. Cụ Phan thích nhất là La Cloche félé e và L'Annam, cụ bảo trong nước
ta chỉ có tờ báo này công nhiên chống chế độ thực dân Pháp, đả kích mạnh chống
những chủ trương chính sách vô nhân đạo của bọn thông trị. Cụ lo lắng khi Phan
Văn Trường ang Paris ngồi tù, tiếp đó nhiều chí sĩ lão thành làn lượt vĩnh viễn
ra đi. Khi nghe Phan Văn Trường mất, cụ viết câu đối:
Tự tùng phân thủ lục tải dư, tương ức đán tương văn, vọng
Balê, vọng Tây cống, chuyển vọng Ðông kinh, thiên hải thương mạng duy lão lụy.
Tổng cá thương tâm bách niên trung, đồng sinh nghi đồng tử,
khốc Tây Hồ, khốc tập Xuyen, hữu khốc Phu Tử, giang sơn tịch mịch mãn bị phong.
Minh viên Huỳnh Thúc Kháng dịch:
Sáu năm cách mặt, nhớ nhau mà ít được gặp nhau, trông Balê,
trông Tây Cống, rồi trông ra Ðông Kinh luôn, mấy giọt lụy già mênh mông trời
biển.
Một kiếp thương tâm, sống vậy nên cùng nhau chết vậy, khóc
Tây Hồ, khóc Tập Xuyên, nay lại khóc huynh ông nữa, một luồn gió thảm bát ngát
non sông.(a)
(Báo Tiếng dân ngày 3/5/933).
Cụ Huỳnh Thúc Kháng cũng đăng báo tiếc thương nhà chí sĩ:
Trường chính trị gặp bước gian nan, một mảnh đan tâm vàng
chịu lửa.
Cõi tinh thần tìm đường giải phóng, nghìn năm thanh sử miệng
còn bia. (Tài liệu viết dựa theo quyển 82 Phan Văn Trường và 66 Nguyễn ái Quốc.