Phần nhiều dòng họ các chi phái ở miền trong theo phổ liệu
đều ghi gốc tích thời thượng cổ xuất phát từ Việt Thường bộ, Thanh Lam động(a)
về sau di chuyển vào Lâm Châu (Lâm Bình) rồi mới chuyển vào đạo Quảng Nam(b)
và tiếp tục vào tận cực nam.
Ông Phan Công Thiên gốc từ Thanh Hóa, sinh ngày 6 tháng giêng
năm Mậu Ngọ (1318) đời Trần Minh Tông (1314-1329) lấy vợ là Trần Ngọc Lăng, công
chúa con vua Trần, sinh năm Quý Hợi (1323). Ông được vua Trần ban chức "Ðô chỉ
huy sung thập tam châu kinh lược chiếu dụ xử trí sứ" tức là chức Kinh lược coi
13 châu, chiêu dụ các chủng tộc địa phương, xử trí an cư lạc nghiệp, hòa hợp làm
ăn.
Ông vào đóng tại Ðà Sơn năm 1346 lúc này gọi là Trà Ngâm
động, Trà Na Xử, với diện tích rất rộng thuộc phía nam xứ Hóa Châu, từ sông Cu
Ðê phía nam đèo Hải Vân vào đến huyện Ðiện Bàn, có các họ Phan, Nguyễn Kiều, Ðỗ
vào khai hoang lập ấp ở lẫn với người Chiêm Thành.
Kể từ năm 1307, sau lúc Chiêm Thành nhường lại châu Ô, Lý,
vua Trần Anh Tông đổi tên là châu Thuận (từ Quảng Trị vào bắc Thừa Thiên) và
Châu Hóa (từ nửa phía nam Thừa Thiên vào địa bàn Quảng Nam phía bắc sông Thu
Bồn), việc chỉ đạo sản xuất khai hoang được thuận lợi, nhưng sau khi vua Chiêm
là Chế Mân chết, bà Huyền Trân được đưa về bắc thì tình hình trở nên gay go, các
vua Chiêm kế vị đòi lại 2 châu ấy. Chế Bồng Nga từ 1377 gây chiến với Ðại Việt
đã từng tiến ra phía bắc làm chủ tình hình từ Nghệ An trở vào Thuận Hóa. Cuộc
chiến xảy ra liên miên kéo dài cho đến lúc Chế Bồng Nga tử trận vào năm 1390,
tình hình mới ổn định.
Ông Phan Công Thiên vào làm Kinh lược sứ vùng Hóa Châu thời
kỳ khó khăn, thế lực quân Chiêm Thành hùng mạnh, lòng dân ly tán, nhưng ông khôn
khéo xử trí người Việt và người Chiêm đảm bảo cho sản xuất ổn định, sinh hoạt an
toàn.
Ðến cuối đời Trần do tuổi già sức yếu, ông xin nghỉ, được vua
Trần phong là "Thành Hoàng Thuận Quốc Công" giao cho 2 người con tiếp tục nhiệm
vụ của cha: Kinh lược các châu, động trại, toàn quyền xử lý các địa phương.
Ông Phan Công Thiên về dựng tư phủ tại trại Trà Na làng Ðà
Sơn bấy giờ. Người con trưởng là Phan Công Chánh dựng công phủ tại Ðà Câu (sau
là Lạc Câu) châu Thăng Hoa, người con thứ 2 là Phan Công Nhâm dựng công phủ tại
trại Nội Ðồng, xã Ðà Ly, đặt huyện nha tại trại Kỳ La. Nhưng tiến trình diễn
biến một cách bất lợi: năm 1400 Hồ Quý Ly giết vua nhà Trần, mà hai ông Công
Chánh. Công Nhâm lại là cháu ngoại Hoàng tộc Trần Triều công chúa, một đối tượng
mà nhà Hồ đương tìm cách trừ khử.
Với trách nhiệm đối với nhân dân, và trách nhiệm riêng đối
với gia đình, ông Phan Công Thiên phải bố trí cho hai người con: con trưởng xin
từ chức mượn cớ về nghỉ để nuôi dưỡng cha mẹ già. Con thứ 2, ông Phan Công Nhâm
phải thu hết sổ sách giấy tờ đến yết kiến quan nhà Hồ, nói dối là chào mừng
chính quyền mới và vâng lệnh nhận công việc Triều Hồ để tránh hiềm nghi. Viên
quan nhà Hồ vui mừng thiết đãi yến tiệc rồi giao cho ông Công Nhâm nhận quản lý
số lưu dân người Việt, tha dòng tôn thất cũ nhà Trần, ôngchuyển những dân Việt
chống lại Triều mới, di chuyển vào, chia vào các trại cho làm nhà ở và cấp ruọng
đất để sản xuất ổn định.
Năm 1402, Hồ Quý Ly chiếm đất Chiêm Ðộng, Cổ Lũy, đặt 4 châu:
Thăng, Hoa, Tư Nghĩa (Quảng Nam, Quảng Ngãi) nhưng khi nhà Minh đánh bại Hồ Quý
Ly, đem đất Chiêm Ðộng Cổ Lũy trả lại cho Chiêm Thành, thì người Việt ho họ Hồ
điều vào, nay lại chạy ra châu Hóa phía bắc sông Thu Bồn, ông Phan Công Nhâm vẫn
khôn khéo xử trí để đảm bảo cho người Việt được an toàn.
Tuy vậy, một người cháu (đời thứ III) là ông Phan Công Minh
vẫn bí mật rèn luyện lớp trẻ, chuẩn bị lực lượng để chờ cơ hội lập công cứu
nước. Năm 1425, lúc vua Lê cử tướng Trần Nguyên Hãn vào đánh Tân Bình, Thuận
Hóa, thì ông Phan Công Minh đem lực lượng sung vào nghĩa quân chống đánh giặc
Minh lập được nhiều chiến công. Nên khi đánh đuổi được giặc Minh, nước nhà hoàn
toàn giải phóng, vua Lê phong ông là "Thuận Hóa hầu" (mộ ông bà tại làng Ðà Sơn
có bia ký).
Ông Phan Công Thiên mất ngày 14-4 âm lịch năm 1405.Do có công
tích lớn nểnTiều Thần phong sắc "Thành Hoàng Thuận Quốc Công"; Triều Lê phong
"Hữu Dực Thánh Thành Hoàng"; Triều Nguyễn phong "Dực bảo trung Hưng linh phò Tôn
Thần" - Hiện nay lăng mộ ông tại thôn Ðà Sơn, xã Hòa Khánh, huyện Hòa Vang, tỉnh
Quảng Nam, đã được công nhận là di tích địa phương.
Con cháu ông vẫn tiếp tục khai hoang lập ấp, có nhiều công
tích ở nhiều nơi, nhiều vùng đất nước: Quảng Nam, Thừa Thiên, Quảng Ngãi, Bình
Ðịnh, Khánh Hòa, Bình Thuận và tận Nam Bộ.
Ðời thứ IV: Ông Phan Công Xiêm cai cơ đồn Hóa ồ (Nam Ô) có
công khai hoang hai xứ Ðồng Thiên, Ðồng Tranh ở vùng Cu Ðê (Hoà Vang) đến nay
vẫn còn địa danh lưu truyền.
Ðời IV: Ông Phan Cao Huy và bà Lê Thị Ngọc Mỹ, ông bà có công
phò vua Lê lánh nạn Ai Lao lúc bị nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, nên về sau ông được
phong "Ðô đốc chỉ huy HiênNgọc Hầu", bà "Tứ phẩm cung nhân".
Ðời thứ V: Ông Phan Công Giáo lúc gặp chúa Nguyễn Hoàng vào
quan sát vùng đất Ðiện bàn đã trình bày tình hình và thành tích tổ tiên, được
chúa Nguyễn Hoàng báo cáo ra vua Lê nên được phong sắc cho tổ Phan Công Thiên
nói trên. Còn ông Công Giáo được ghi là Công Thần, con cháu được nhận tước nam
và ruộng đất làm hương hỏa phụng thờ (mộ phần ông bà tại Ðà Sơn có bia ký).
Ðời thứ VI: Ông Phan Công Tấn Ngọc khai hoang 2 xứ đất Mộc
Sách, Gô Mê, mộ dân đến ở, lập xã hiệu Trung Sơn (nay Thanh Vinh), Tân Ninh,
Hương Phước (nay là xã Hòa Khánh và Hòa Liên, Hòa Vang).
Ðời thứ VII: Ông Phan Kế Khanh năm Quan Thuận thứ IV (1463)
khai khẩn 5 xứ đất Ðồng Rau lập ấp xã Cẩm Nê, 7 xứ đất Ðồng Quang lập xã Cẩm Tọa
(Hòa Vang).
Ðời thứ VII: Ông Phan Công Hiển, học vị tiến sĩ đã có công
giúp chúa Nguyễn mở rộng bờ cõi ở phương Nam được phong là "Thứ sử quan" vợ là
Nguyễn Phước Bình - ông bà sinh được 11 người con, trong đó 5 người con đầu tòng
quân chúa Nguyễn bình định Thủy Chân Lạp, lúc ổn định 5 người con ở lại dạy dân
Chân Lạp về văn hóa và cày cấy, rồi sinh cơ lập nghiệp trong đó, con cháu về sau
phát triển di cư đến miền Tây Nam Bộ.
Ðầu thế kỷ XVII: Hậu duệ của ông Phan Công Hiển vào Nam có
ông PhanTans Thọ ở tại Gia Ðịnh Thành, đến đời thứ V cháu chắt của ông Phan Công
Tấn Huynh (Quỳnh) giúp chúa Nguyễn ánh cai quản đất Gia Ðịnh Sài Gòn (Sài Gòn).
Có nhiều công tích được phong là Hoàng Công Hầu, làng mộ ông hiện nay tại đường
Huỳnh Văn Bánh quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh (có tiểu sử riêng ở dưới).
Nói chung con cháu ông Phan Công Thiên với hai hệ Phan Công
Chánh (hệ I) và Phan Công Nhâm (hệ II) phát triển khá đông đúc ở Quảng Nam, vào
các tỉnh miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ.
Riêng tỉnh Quảng Nam đã được các hệ phái xác minh ở nhiều
huyện.
Huyện Hòa Vang có 34 chi phái ở các thôn xã
Huyện Ðiện Bàn có 11 chi phái ở các thôn xã
Huyện Ðại Lộc có 11 chi phái ở các thôn xã
Huyện Duy Xuyên có hai chi phái ở các thôn xã
Huyện Thăng Bình có 9 chi phái ở các thôn xã
Huyện Quế Sơn có 10 chi phái ở các thôn xã
Các huyện Tam Kỳ, Núi Thành, Tiền Phước có 8 chi phái ở các
thôn xã.
Riêng tỉnh Quảng Nam có 85 chi phái - Từ Quảng Nam lại phát
triển đi các tỉnh khác:
Ở tỉnh Quảng Ngãi:
Ông Phan Văn Tỏ đời thứ XVI từ Quảng Nam
vào sinh cư lập nghiệp tại làng Ðông Mỹ, huyện Tư Nghĩa. Con cháu ông Phan Văn
Tỏ đời thứ IV có ông Phan Văn Hảo ra sinh cư lập nghiệp tại làng Mỹ Lợi, huyện
Phú Lộc tỉnh Thừa Thiên.
Ðời XVII: Ông Phan Văn Chiểu cũng từ Quảng Nam vào lập nghiệp
tại làng Lương Nông Bắc, xã Ðức Thạnh huyện Mộ Ðức.
Ở tỉnh Bình Ðịnh:
- Ông PhanCông Bình đời thứ XVII cũng từ Quảng Nam vào lập
nghiệp tại làng Hiếu Nghĩa, huyện Tuy Viễn.
- Ông Phan Công Binh đời thứ XVII dời vào sinh cư tại làng An
Dưỡng, Tổng Trung An, Phủ Hoài Nhơn.
Ở tỉnh Khánh Hòa:
- Ông Phan Văn Cường cùng em là Phan Văn Kiểu đời thứ XXII
dời vào xã Ninh Thuận, huyện Ninh Hòa đến nay ba đời.
- Ông Phan Công Thạnh đời thứ XIX cũng dời vào Nha Trang đến
nay 7 đời.
Ở tỉnh Bình Thuận:
Ông Phan Quyên dời vào Phan Thiết đến nay
4 đời.
- Ông Phan Cẩn cũng dời vào Phan Thiết đến nay 3 đời.
- Ông Phan Ðồi cũng từ Kim Bồng dời vào Phan Thiết đến 3 đời.
Ở tỉnh Gia Ðịnh: (nay là TP. Hồ Chí Minh).
- Ông Phan Tấn Thọ đờithứ XIV hậu duệ ông Phan Công Hiên dời
vào địnhcw tại Gia Ðịnh Thành, con cháu có ông Phan Tấn Huỳnh, nhận chức Tổng
Trấn Phiên An.
- Ở tỉnh Thừa Thiên Huế:
- Ông Phan Công Tích đời thứ XVIII, tước phẩm "Phong Ðăng
Hầu" triều Gia Long thuộc dòng trực hệ 1 phát triển con cháu gồm 6 chi phái: chi
1, 2, 3, 4 và một phần chi 5 sinh cư tại Ðà Sơn, Ðà Nẵng, Sài Gòn. Còn một phân
chi 5 và 6 sinh cư tại các phường Tĩnh Tâm, Tây Lộc, Vĩnh Lợi và Ðập Ðá thành
phố Huế truyền đến nay là 8 đời. Con cháu đông đúc.
Tự tôn tại Ðà Sơn hiện nay là ông Phan Văn Nam, tại Huế là
ông Phan Văn Dư và Phan Văn Minh.
Ông Phan Văn Hảo đời thứ XIX con cháu hệ phái Phan Văn Tơ đời
thứ (XVI) tại làng Ðông Mỹ, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi dòng Ðà Sơn, cháu
đời thứ III ông Phan Song (tức Thắng) về lại Quảng Nam lưu cư tại làng Bàn
Thạch, huyện Duy Xuyên rồi đến ông PhânHò đời thứ 4 (tức XIX) di lưu sinh cứ tại
làng Mỹ Lợi, Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên, truyền đến nay ở Mỹ Lợi là 7 đời.
Ông Phan Hữu Quyền đời thứ XVII Hậu duệ Phan Hữu Phú (đời V)
dời ra sinh cơ lập nghiệp tại làng Thổ Sơn, xã Lộc Tiên, huyện Phú Lộc, tỉnh
Thừa Thiên truyền đến nay ở Thổ Sơn đến nay là 9 đời.
- Ông Phan Công Ðông, đời thứ VI giữ chức cai cơ thờ chúa
Nguyễn, Trấn thủ Thuận Hóa (Phố Ký ghi tại Ðình Quảng Ðức). Vợ là bà Nguyễn Thị
Ngọc Oai Tùng tam phẩm phu nhân đến nay chưa biết hệ chi phái này ở Thừa Thiên
hay nơi nào khác.
- Tại Thừa Thiên còn có ghi chi phái quê quán ở Thanh Hà,
Quảng Lộc, Quảng Ðiền, vào Quảng Nam ở xã Quảng Châu, Hội An hiện có con cháu ở
thôn 2 Hải Sơn, Krông Bông DaKlaK và chi phái khác ở thôn Phước Thọ xã Esphe
Không Nắc DaKlaK (còn đương điều tra xác định hệ phái).
Nói chung hệ con cháu dòng họ thủy tổ Phan Công Thiển rất
đông, đã 95 chi phái liên hệ xác nhận gốc tổ. Còn các chi phái ở DaKlaK, Phú
Vinh (QUế Xuân) Phước Kiều (Ðiện Phương), Mỹ Thuận (Ðại Lộc) Nho Lâm (Bính Trị)
vẫn còn tiếp tục sưu tầm để đối chiếu tộc phả xác định thế hệ.
Ngoài ra có một dòng họ Phan ở Quảng Nam có quan hệ đồng tộc
cần xác minh.
- Làng Thị Lai (xã Ðiện Phong) ông Phan Phước Triệu với các
con Phan Phước ức, Phan Phước Vạn, Phan Phước Bách (có nói về dòng họ theo thế
phổ ở dưới) có quan hệ với Ðà Sơn trong các ngày tế lễ và trùng tu lăng mộ tổ.
- Làng Bản Lãnh (Ðiện Trung) sinh 4 hệ phái ở Bản Lãnh, Ðông
Yên,Cổ Tháp. Trong Phổ Chí Ðà Sơn có ghi là hệ phái đồng tôn, những đến nay chưa
các định.
- Làng Phong Thử (ÐIện Thọ) ông Phan Ðài sinh hệ phái Phan:
Minh Ðức Ðường (có nói về dòng họ theo tộc phả ở dưới). Phái Quang Tiền Vũ Hầu,
Phái Phan Phụng Tiên sinh hệ phái Phụng Tự - Hệ Minh Ðức và Quang Tiền có quan
hệ đóng góp trùng tu lăng mộ tổ ở Ðà Sơn.
- Làng Bảo An (Ðiện Quang). Ông Phan Nhơn Huyện, sinh hạ phát
triển dòng họ tại địa phương này, cũng tham dự ngày lễ hội lớn và cũng đóng góp
trùng tu lăng mộ tổ.
- Làng Phiếm ái (ái Nghĩa, Ðại Lộc) ông Phan Ðức Cấp sinh hạ
phát triển tộc họ tại làng này cũng có quan hệ đồng tôn với Ðà Sơn.
(Tư liệu trên viết theo "Thế phổ dòng họ Ðà Sơn Quảng Nam"
1328 - 1997 do Ban tu sưu tộc Phổ chí biên soạn năm Ðinh Sửu (1997).